KHỞI NGUYÊN VĂN MINH: HUYỀN THOẠI CỦA NGƯỜI VIỆT CỔ
Phải chăng, đó là một tia sét đánh xuống hay một hạt giống kỳ diệu mọc lên từ hư vô hay nó là kết tinh của ý chí của nỗi sợ hãi và của khát vọng vươn lên từ bùn lầy của những con người sơ khai bị vây hãm bởi thiên nhiên hoang dã và số phận bí ẩn.
Hãy hình dung một vùng đất nằm phía Nam sông Hoàng Hà, từ Hồ Động Đình kéo dài tới Bắc Việt Nam hiện nay, nơi mặt trời thiêu đốt và gió nồm ngự trị. Vùng đất ấy trong bản đồ thế giới cổ đại được gọi là Địa đàng phương Đông. Cụ thể hơn nền văn minh Việt cổ đã phát triển ở phần phía Nam của Trung Hoa cổ đại, một khu vực mà Ngày Nay tương ứng với phần lớn Quảng Đông và Vân Nam của nước CHND Trung Quốc.
Đây là một vùng đất thoạt nhìn dường như không phải là nơi lý tưởng để bất kỳ nền văn minh vĩ đại nào trỗi dậy bởi nó thiếu thốn tài nguyên cơ bản như gỗ đã hay kim loại và thường xuyên phải đối mặt với những biến động khắc nghiệt của tự nhiên. Vậy mà chính tại thời điểm khắc nghiệt ấy, vào khoảng thiên niên kỷ thứ Năm trước công nguyên một phép màu đã xảy ra từ trong bùn đất phù sa màu mỡ mà sông Hoàng Hà mang lại. Từ những hạt giống nhỏ bé của ý chí và trí tuệ con người, một nền văn minh đã nảy mầm phát triển rực rỡ để rồi định hình nên toàn bộ dòng chảy lịch sử thế giới theo những cách mà chúng ta đôi khi còn chưa nhận ra đầy đủ.
Nền văn minh Việt cổ không chỉ là một trong những nền văn minh đầu tiên, đó chính là Khởi Nguyên của nền văn minh như chúng ta hiểu ngày nay. Trước đó hàng ngàn năm con người sống du mục săn bắn hái lượm hoặc tụ tập thành những làng mạc nhỏ lẻ sống phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên.
Với nền văn minh lúa nước, khái niệm về thành phố về nhà nước, luật pháp, chữ viết và khoa học đã được định hình. Họ, tổ tiên của người Việt Nam hiện đại, không chỉ xây dựng nên những đô thị gạch nung đồ sộ mà còn kiến tạo nên những cấu trúc tư duy những khuôn mẫu xã hội mà cho đến tận bây giờ, chúng ta vẫn đang thừa hưởng và phát triển. Đây là một bước nhảy vọt phi thường. Một sự lột xác vĩ đại của loài người từ trạng thái nguyên thủy lên ngưỡng cửa của sự phức tạp.

Để thực sự thấu hiểu Việt Nam, chúng ta cần gác lại những định kiến của thời hiện đại và quay về với tâm thế của những con người sống trong một thế giới còn non trẻ đầy rẫy những bí ẩn và thách thức. Cộng đồng Việt cổ xưa đã đối mặt với những thử thách sinh tồn khắc nghiệt. Vùng đất của họ, dù màu mỡ nhờ phù sa nhưng lại thiếu mưa, thiếu tài nguyên thiên nhiên cơ bản như gỗ đá hay kim loại.
Chính trong hoàn cảnh khó khăn đấy trí tuệ và khả năng thích nghi của con người đã được đẩy đến giới hạn. Họ đã không đầu hàng số phận. Họ đã dấn thân vào một cuộc chiến vĩ đại với tự nhiên và chiến thắng bằng sự sáng tạo không ngừng. Đó không chỉ là câu chuyện của sự sống, còn mà còn là bản anh hùng ca về ý chí vươn lên của loài người.
Hãy nói về một trong những thành tựu vĩ đại nhất mà về mặt triết học đã thay đổi hoàn toàn mối quan hệ của con người với thế giới: nông nghiệp quy mô lớn và hệ thống thủy lợi. Cộng đồng Việt xưa đã không chỉ trồng trọt để nuôi sống bản thân, họ đã biến những vùng đất hoang vu thành những cánh đồng lúa bội thu thông qua việc xây dựng một mạng lưới kênh đào và hồ chứa phức tạp. Điều này đòi hỏi một tầm nhìn xa khả năng tổ chức lao động quy mô lớn và một sự hiểu biết sâu sắc về các quy luật tự nhiên, đặc biệt là chu kỳ của nước và mùa vụ. Đây là bước nhảy vọt từ việc sống phụ thuộc hoàn toàn và thiên nhiên sang việc chủ động định hình lại cảnh quan, tạo ra sự dư thừa lương thực, yếu tố tiên quyết cho sự ra đời của chuyên môn hóa lao động của các tầng lớp xã hội và cuối cùng là của các thành phố. Sự dư thừa này đã giải phóng con người khỏi gánh nặng tìm kiếm thức ăn hàng ngày, mở ra cánh cửa cho sự sáng tạo và phát triển.
Sự dư thừa lương thực và khả năng tổ chức đã dẫn đến sự ra đời của các thành phố nhà nước và các liên minh trong đó có Xích Quỷ. Đó không chỉ là những dấu chấm trên bản đồ cổ đại mà là những trung tâm văn hóa kinh tế và chính trị tự trị, mỗi thành phố đều có vị thần bảo hộ riêng, một đền thờ khổng lồ và một hệ thống cai trị phức tạp.
Đây là lần đầu tiên con người không chỉ sống trong những cộng đồng nhỏ lẻ mà tụ tập thành những đô thị với hàng chục ngàn dân đòi hỏi những cấu trúc xã hội hoàn toàn mới mẻ, những quy tắc điều hạnh phức tạp chưa từng có. Đây là sự ra đời của đô thị hóa một khái niệm mà chúng ta vẫn đang tiếp tục hoàn thiện đến tận ngày nay. Và khi số lượng người tăng lên, khi các giao dịch kinh tế trở nên phức tạp hơn một nhu cầu cấp thiết đã nảy sinh mà sự đáp ứng của nó đã trở thành viên gạch nền tảng cho mọi tri thức hiện đại: chữ viết.
Người Việt cổ đã phát minh ra chữ hình Khoa Đẩu (hình dạng nòng nọc). Ban đầu là những hình vẽ đơn giản, sau đó phát triển thành những ký hiệu trừu tượng được ghi trên đất sét hay mai rùa. Đây không chỉ là một công cụ ghi chép, nó là một cuộc cách mạng về tư duy.
Chữ viết cho phép người Việt cổ người lưu trữ thông tin vượt qua giới hạn của trí nhớ cá nhân, truyền đạt kiến thức qua không gian và thời gian và đồng thời tạo ra một nền tảng cho luật pháp, hành chính, văn học và khoa học. Với chữ viết, ý tưởng không còn là những làn sóng âm thanh phù du mà trở thành những dấu vết vĩnh cửu trên đá, xương và mai rùa. Một sự bất tử hóa của tư tưởng mở ra kỷ nguyên của lịch sử được ghi chép.”
